Bảo dưỡng vỏ tàu bao gồm những
công việc nhằm mục đích giữ cho vỏ tàu , các buồng , phòng và các thiết
bị trên boong không bị gỉ , mục , luôn luôn sạch sẽ để có thể sử dụng
con tàu được lâu dài . Đại phó có trách nhiệm kiểm tra , đôn đốc ; thủy
thủ trưởng trực tiếp phân công thực hiện công tác này . Dưới sự chỉ đạo
của đại phó , thủy thủ trưởng đặt kế hoạch công tác bảo dưỡng vỏ tàu
từng quí , từng tháng và từng ngày . Kế hoạch công tác hàng ngày do thủy
thủ trưởng vạch ra , thông qua đại phó duyệt , sau đó phân công cho
thủy thủ thực hiện . Tất cả các thuyền viên trên tàu đều phải có ý thức
trách nhiệm giữ cho tàu sạch đẹp .
I. CÔNG TÁC VỆ SINH
Trên tàu phải làm công tác vệ sinh hàng ngày .
Các tổ chức thực hiện và nội dung công tác này trên mỗi tàu có khác nhau
đôi chút tùy theo điều kiện đi biển , nhiệm vụ vận tải và số lượng
thuyền viên trên tàu .
Hàng ngày phải quét dọn hành lang , buồng ở ,
buồng công cộng , buồng lái và buồng để hải đồ , các boong thượng tầng
kiến trúc khi cần thiết phải rửa boong .
Quét dọn buồng lái buổi sáng
thường do thủy thủ đi ca 4-8 đảm nhiệm gồm những công việc lau sàn ,
lau cửa kính , lau chùi và đánh bóng các dụng cụ bằng đồng , lau chùi
lan can , cầu thang và bên ngoài các máy móc .
Hàng ngày các cấp
dưỡng có nhiệm vụ quét dọn nhà bếp và nhà ăn công cộng . Phục vụ viên có
nhiệm vụ quét dọn nhà vệ sinh , hành lang , câu lạc bộ , buồng ở của sĩ
quan và buồng tắm giặt .
Sau khi kết thúc công tác bốc xếp hàng hóa , chuẩn bị đi biển thì bơm nước rửa boong chính cho sạch sẽ .
Công
tác quét dọn trên tàu khách phức tạp hơn trên tàu hàng . Trước khi tiếp
nhận khách lên tàu phải tiến hành tổng vệ sinh , thay tất cả các vải
lót giường , chăn , gối , lau sàn , bàn ghế và các dụng cụ cá nhân ,
phơi chăn gối và thông gió buồng ở . Lau chùi hành lang và các buồng
công cộng , buồng tắm giặt , nhà vệ sinh . Hàng ngày trước lúc ăn sáng
của khách , nhân viên phục vụ phải quét dọn buồng ở của khách ( nên tiến
hành lúc khách vắng mặt ) , lau chùi hành lang , quét dọn các buồng
công cộng , boong thượng , cầu thang , lan can …
Khi tàu đậu trong
cảng không được đổ rác ra ngoài mạn làm bẩn cảng , phải tập trung rác
vào thùng rác ( thường để ở sau lái ) . Nếu cần yêu cầu cảng cho ô tô
chở rác đến lấy rác đi .
1. Làm vệ sinh boong chính
Sau khi bốc
hết hàng tươi sống trên boong , sau khi bốc xếp than , xi măng , âptit ,
quặng hoặc những loại hàng dễ bẩn khác và trước khi tàu chạy ra biển
đều phải rửa boong chính cho sạch sẽ .
Trước khi rửa , đóng chặt
miệng hầm hàng , đậy kín các đế cắm điện trên chân cột hoặc trên be
miệng hầm hàng . Nếu trên boong có đầu dây điện thì phải bọc kín dùng
bạt bọc kín hàng hóa để trên boong , dọn hết rác bẩn và không để rác làm
tắc ống thoát nước . Lắp ống rồng vào hệ thống đường ống nước rửa boong
( dùng nước biển để rửa ) và mở sẵn van ống nước ( dùng ống rồng rửa
boong chuyên dụng , chứ không dùng ống rồng chữa cháy ) . Sau đó báo cho
buồng máy chạy bơm nước rửa boong .
Khi rửa , một thủy thủ cầm đầu
ống rồng phun nước , thủy thủ thứ hai nâng ống rồng để giúp thủy thủ kia
di chuyển ống rồng được dễ dàng . Những thủy thủ khác dùng chổi cứng
quét theo dòng nước cho hết than vụn , quặng vụn , đất , cát … Phung
nước theo thứ tự từ mũi về lái , từ cao xuống thấp , từ trên gió xuống
dưới gió ( tức là không để đầu ống rồng phun nước ngược gió ) , không để
nước phun vào cửa sổ kín nước ( cửa húp lô ) của các buồng ở và miệng
ống thông gió các hầm hàng . Nước phun đến đâu quét sạch đến đó . Trong
quá trình rửa thường xuyên móc rác đọng lại ngang miệng lỗ thoát nước ở
chân be mạn , để nước rửa boong chảy ra ngoài mạn được thông suốt . Thủy
thủ rửa boong phải đi ủng cao su và mặc áo chống thấm .
Khi kết thúc , quét lại một lần nữa cho sạch hết những vũng nước còn lại trên boong .
Trên
tàu dầu , mặt boong chính thường bị bẩn do dầu mỡ . Để rửa thật sạch ,
trước hết đổ nước xà phòng hoặc bồ tạt vào vết bẩn , rồi dùng bàn chải
cọ , sau đó dùng ống rồng phun nước rửa như trên tàu chở hàng khô .
2. Làm vệ sinh boong thượng tầng
Trên các mặt boong thược khu vực thượng tầng kiến trúc thường lát một lớp gỗ ván sàn .
Hàng
ngày thủy thủ trưởng phân công thủy thủ quét dọn các boong chính thượng
tầng . Dùng chổi mềm quét từ trên gió xuống dưới gió cho hết rác bẩn ,
tập trung rác vào thùng rác ( để chờ ô tô rác cảng tới lấy , hoặc chờ
khi tàu chạy sẽ đổ xuống biển ) .
Hàng tuần phải rửa các boong thượng
tần ít nhất một lần , rửa theo thứ tự từ boong cao nhất trở xuống .
Trước khi rửa cần quét boong cho hết rác bẩn , lấy nước ngọt làm ướt mặt
gỗ một lượt , rồi rắc cát mịn lên mặt gỗ , sau đó dùng bàn chải cứng
hoặc xơ vỏ dừa cọ dọc theo chiều thớ gỗ . Khi cọ không làm xước mặt gỗ ,
đổ nước xà phòng hoặc bồ tạt vào chỗ bẩn để khoảng 5 – 7 phút rồi rắc
thêm cát mềm , sau đó dùng bàn chải cứng hoặc xơ vỏ dừa để cọ , không
nên dùng xút ăn da để cọ làm cho mặt gỗ bị hỏng nhanh chóng .
Sau khi
cọ xong dùng ống rồng phun nước cho hết cát và rửa sạch boong . Khi kết
thúc , quét hết những vũng nước còn lại trên boong .
Sau khi mặt
boong gỗ đã được cọ rửa sạch , để kéo dài tuổi thọ mặt gỗ khi gỗ đã khô
cần sơn hai hoặc ba lớp sơn dầu mỏng đã được hâm nóng lên mặt gỗ . Sau
khi sơn xong mặt gỗ sẽ ngả sang màu hạt giẻ sẫm và co tính chống ẩm tốt .
Boong
gỗ phải giữ được tính kín nước tốt , do đó phải xâm chặt những rãnh hở ở
giũa các thánh gỗ ván sàn . Công tác xảm boong gỗ thường do xưởng chữa
tàu đảm nhiệm , nhưng trong thực tế nhiều khi thuyền viên cũng phải làm
công tác này tuy chỉ xảm từng bộ phận nhỏ .
Nếu những chỗ xảm cũ đã
bị bật lên , mục nát , hoặc lớp hắc ín đã biến chất không còn tác dụng
thì phải xảm lại chỗ đó . Tiến hành xảm khi thời tiết khô ráo , sáng sủa
và rãnh không bị ẩm ướt .
Trước hết dùng dao cạo gỗ , xới bật những
lớp xảm cũ , dùng bàn chải chải sạch rãnh . Lấy dây gai haowcj lanh tẩm
dầu chặt ra từng đoạn rồi giũ tung ra thành sợi . Bền qua những sợi này
lại thành tao có độ dày và chiều dài bằng chiều rộng và chiều dài của
rãnh . Sau đó nhét tao xuống rảnh tới độ sâu nhất định . Nếu rãnh rộng
và sâu , thì không nên bện một tao lớn , mà bện thành 2 hoặc 3 tao rồi
nhét xuống rãnh , trải đều tao liên tục trong rãnh , không bị gián đoạn .
Những rảnh ở đầu mút của thanh gỗ cần xảm chặt và tỉ mỉ vì ở đây gỗ rất
nhạy cảm với khí ẩm . Sau đó dùng phểu đổ nước hắc ín nóng vào rãnh .
Để sau này hắc ín không bị rạn nứt , cần pha thêm một ít dầu thực vật ( 1
phần dầu , 2 phần hắc ín) . Hắc ín phải đun ở trên bờ , tuyệt đối không
đun trong khoang bếp . Nếu tàu đang chạy trên biển , có thể dùng bếp
điện để đun , nhưng phải đặc biệt phòng cháy . Sau khi đổ lần thứ nhất ,
hắc ín nguội lạnh co lại , làm cho mặt rãnh bị lõm xuống ( sau này nước
sẽ đọng lại ở đó ) , do đó phải đổ hắc ín tiếp lần thứ hai để làm bằng
mặt rãnh với mặt boong . Trong quá trình làm việc phải đeo kính bảo vệ
mắt và găng tay , để tránh bụi hắc ín ăn mòn . Mặt boong gỗ sau khi xảm
sẽ giữ được tính kín nước tốt và không bị mục .
3. Làm vệ sinh thượng tầng kiến trúc
Trước
khi rửa các vách ngoài của thượng tầng kiến trúc , phải đóng tất cả các
cửa sổ kín nước ( cửa húp lô ) của các buồng , các phòng , cửa đi ra
boong , cửa nóc buồng máy , bị miệng các ống gió … Lấy ống rồng phun
nước rửa qua một lượt mặt vách , theo thứ tự từ trên xuống dưới từ trên
gió xuống dưới gió . Sau đó lấy một vài xô đựng nước xà phòng ( hoặc bồ
tạt ) dùng bàn chải nhúng nước xà phòng cọ lên mặt vách cho sạch hết vết
bẩn . Để cọ những vách trên cao , có thể dùng bàn chải có cán dài . Khi
cọ vách mặt trước buồng lái , thì dùng ca bản để đứng . Nếu không có
bàn chải thì có thể dùng giẻ nhúng nước xà phòng để cọ . Sau khi cọ xong
dùng ống rồng phun nước lại một lần nữa lên mặt vách cho hết xà phòng .
Cuối cùng quét sạch hết những vũng nước còn đọng lại trên boong do khi
phun nước bị vung *** ra .
Những vách trên boong của thượng tầng kiến
trúc như vách hàng lang , vách các buồng , các phòng nếu bẩn cũng rửa
cho sạch . Trước hết lấy xô đựng nước sạch , dùng giẻ nhúng nước trong
xô để rửa qua mặt vách một lượt . Nhân lúc mặt vách còn đang ướt , dùng
bàn chải hoặc giẻ nhũng nước xà phòng pha thêm chút bột ( tinh thể )
natri cacbônat để cọ mặt vách . Không dùng xút ăn da để rửa , làm cho
lớp sơn mặt vách bị hỏng nhanh chóng . Những chỗ nhỏ hẹp hoặc gấp khúc
thì dùng giẻ để rửa ( những chỗ không dùng được bàn chải ) . Những chỗ
có vết hoen ố của gỉ sắt , thì rắc vào đấy một ít bột ximăng hoặc cát
mềm , rồi dùng miếng vải bạt cũ cọ cho sạch . Cuối cùng dùng giẻ nhúng
nước sạch trong xô rửa lại một lần nữa cho hết nước xà phòng hoặc cát ,
ximăng . Khi kết thúc rửa vách phải quét và lau sạch những vũng nước
đọng lại ở mặt sàn chân vách .
Kính trên cửa sổ , cửa ra vào và gương
soi trên vách đều phải lau sạch , lau kính cả mặt trong lẫn mặt ngoài .
Trước hết lấy giẻ nhúng nước ấm lau mặt kính cho hết vết bẩn sau đó
dùng khăn khô lau lại cho mặt kính kho và thật sạch . Nếu mặt cửa sổ làm
bằng nhựa trong ( thay kính ) thì không nên dùng gỉe để cọ ( để tránh
cho mặt nhựa bị xước làm giảm tính trong suốt ) mà phải dùng bông nhúng
cồn để lau .
Tay vịn cầu thang hoặc lan can , quả đấm ổ khóa cửa , đế
đèn và những vật dụng bằng đồng khác đểu phải đánh bóng . Trước hết lấy
giẻ thấm thuốc đánh đồng ( thuốc nước ) cọ mạnh mặt đồng cho bật gỉ và
các vết bẩn , lấy giẻ khô lau hết chất bẩn đã bật ra . Sau đó dùng khăn
sạch đánh cho mặt đồng sáng bóng . Có khi thuốc đánh đồng được điều chế ở
dạng bột nhão , bôi loại thuốc này vào giẻ hoặc ni , rồi cọ mạnh vào
mặt đồng cho bật gỉ xanh và chất bẩn . Sau đó lau sạch và đánh bóng .
Những
sàn bằng vải dầu và chất dẻo , thì rửa bằng nước xà phòng hoặc bồ tạt
cho sạch hết vết bẩn . Dùng nước sạch rửa lại cho hết xà phòng hoặc bồ
tạt . Lấy giẻ lau khô . Cuối cùng dùng tay ( hoặc máy đánh bóng sàn )
đánh xi ( loại xi chuyên dùng đánh bóng san ) cho mặt sàn sáng bóng .
Mặt
sàn bằng gạch tráng men , chậu rửa mặt , chậu tắm bằng sứ tráng men ,
sàn lát ximăng thì cọ bằng nước xà phòng hoặc bồ tạt , rồi dùng nước
sạch dội cho hết xà phòng , tráng lại bằng thuốc sát trùng . Sau đó dùng
giẻ nhúng nước sạch rửa lại , cuối cùng lau khô .
Làm vệ sinh nhà xí phải dùng bột tẩy trắng ( vôi clorua ) để cọ rửa . Mùa hè phải cọ rửa nhà xí ít nhất 2 lần mỗi ngày .
4. Làm vệ sinh mạn và cột
Rửa
mạn và cột là những công tác tiến hành ở trên cao , nếu không cẩn thận
rất dễ xảy ra tai nạn . Do đó trước khi rửa , thủy thủ trưởng phải kiểm
tra lại tất cả các dụng cụ , dây an toàn , dây buộc ca bản , mấu buộc
dây trên be mạn , phao cứu sinh .. có còn tốt không . Chọn những thủy
thủ có kinh nghiệm để làm công tác này .
Khi mạn quá bẩn , hoặc trước
khi sơn mạn phải tiến hành rửa mạn . Có thể rửa mạn khi tàu neo hoặc
khi tàu cập cầu cảng . Rửa mạn khi tàu cập cầu có thể dùng bàn chải có
cán dài và đứng trên cầu cảng để rửa mạn phía cầu , còn mạn kia thì dùng
ca bản , tiến hành rửa theo thứ tự từ trên xuống dưới và từ trên gió
xuống dưới gió . Trước hết phải chuẩn bị những dụng cụ như ca bản , dây
buộc ca bản , thanh dây , phao cứu sinh , dây an toàn , xô đựng nước xà
phòng ( hay bồ tạt ) , giẻ lau và bàn chải có cán dài . Phân công một
thủy thủ trực tiếp rửa , một thủy thủ làm nhiệm vụ cảnh giới và hỗ trợ .
Sau khi kiểm tra thấy dây thực vật ( hoặc nilon ) còn tốt và đảm bảo
thì buộc dây vào ca bản ( dùng nút buộc ca bản ) và đưa ca bản ra ngoài
mạn , rồi buộc các đầu dây vào những mấu trên be mạn thật chắc chắn ,
buộc thang dây bên cạnh ca bản . trên mặt boong , gần nơi làm việc để
sẵn một phao cứu sinh ở chỗ dế lấy nhất , hoặc thả sẵn 1 phao cứu sinh
có buộc dây xuống mặt nước .
Thủy thủ thứ nhất buộc thắt lưng và dây
an toàn rối xuống thang dây để tới ca bản , thủy thủ thứ hai tay nắm đầu
dây an toàn từ từ thả ra theo tốc độ xuống thang của thủy thủ thứ nhất .
Khi thủy thủ thứ nhất đã đứng vào ca bản , dây an toàn vừa căng tới (
không bị chùng ) thì thủy thủ thứ hai buộc đầu dây an toàn vào sừng bò
hoặc mấu trên be miệng , nhưng không nên để dây an toàn quá căng làm ảnh
hưởng tới công tác của thủy thủ thứ nhất . Thủy thủ thứ hai dùng dây
thả xô nước sạch và bàn chải có cán dài xuống gần ca bản ( ở độ cao
thích hợp ) để thủy thủ thưs nhất rửa qua mặt sơn một lượt . Sau đó thủy
thủ thứ hai thả xô nước xà phòng ( hay bồ tạt ) xuống cho thủy thủ thứ
nhất dùng nước rửa sạch lại mạn một lấn nữa cho thật sạch hết xà phòng .
Như vậy đã rửa xong một diện tích nhất định , cần phải di chuyển ca bản
tới vị trí khác . Muốn vậy thủy thủ thứ nhất leo thang dây lên boong ,
cả hai thủy thủ thả ca bản xuống thấp hơn hoặc di chuyển ca bản tới địa
điểm lân cận ( trong trường hợp này di chuyển cả thang dây và phao cứu
sinh ) để rửa tiếp . Với phương pháp như vậy tiến hành cho tới khi rửa
xong toàn bộ mạn tàu . Trong quá trình làm việc cần chú ý mấy điểm sau :
•
Khi thủy thủ thứ nhất làm việc , thủy thủ thứ hai phải luôn luôn có mặt
tại hiện trường . Nếu thủy thủ thứ nhất gặp tai nạn thì thủy thủ thứ
hai phải kịp thời ứng cứu .
• Khi trên ca bản còn có người không được di chuyển ca bản .
• Nếu hai ca bản cùng làm việc một lúc , không được bố trí cái nọ trên cái kia .
• Ở phần cong đuôi tàu , dùng ca bản để làm việc rất khó khăn do đó thường dùng xuồng hoặc bè để thay cho ca bản .
Rửa
cột cũng tương tự như rửa mạn , tiến hành rửa từ trên xuống dưới .
Trước tiên buộc một ròng rọc thật chắc trên cột dùng để kéo thủy thủ lên
cao . Thủy thủ thứ nhất đeo thắt lưng và dây an toàn ngồi trên ca bản
nhỏ hoặc nút ghế ( nút ghế đơn hoặc ghế kép ) . Thủy thủ thứ hai làm
nhiệm vụ cảnh giới và hỗ trợ , kéo dây để nâng thủy thủ thứ nhất lên đến
vị trí cần rửa trên cột , rồi buộc đầu dây vào sừng bò chân cột . Khi
đó thủy thủ thứ nhất buộc dây bảo hiểm vào mấu ( hoặc vật gì tương tự )
trên cột . Cách rửa cũng giống như rửa mạn . Rửa xong một diện tích nhất
định , thủy thủ thứ hai xông dây để thủy thủ thứ nhất hạ thấp dần . Cứ
như vậy cho tới khi rửa xong cột . Trong quá trình rửa cột cần chú ý mấy
điểm sau :
• Ca bản , dây , ròng rọc … trước khi sử dụng phải kiểm tra thật kỹ .
• Phải dùng xô ( hoặc túi bạt ) để đưa dụng cụ lên cao , không chuyên hay ném dụng cụ hoặc đeo dụng cụ theo người .
• Thủy thủ thứ hai đứng ở mặt boong ( chân cột ) phải đội mũ an toàn , đề phòng những vật trên cao có thể rơi xuống
• Chọn thủy thủ lành nghề để rửa cột .
• Không phân công người có bệnh huyết áp hoặc đau tim lên cao để rửa cột .
5. Làm vệ sinh ballast và két nước
Ballast
thường dùng để đựng nước biển dằn tàu , két udngf để đựng nước ăn ,
nước lò hoặc nước tắm rửa . Có nhiều tàu dùng một số ballast nước ít
nhất 6 tháng 1 lần , két nước ăn 3 tháng 1 lần , két nước rửa 1 năm 1
lần . Mặt trong của các ballast hoặc két nước đều được sơn , quét ximăng
, hoặc tráng men để chống gỉ . Nếu sơn thì sơn 3 – 4 lần . Nếu quét
ximăng thì quét 2 lần . Lần thứ nhất trộn 1 phần ximăng với 1 phần cát
mềm , trộn chung với nước để quét . Lần thứ 2 trộn 2 phần ximăng , 1
phần cát mềm rồi hòa chung với nước . Mỗi lần quét 1 lớp ximăng mỏng ,
không nên quá dày , nếu không thì lúc tàu rung lớp ximăng sẽ bong ra
nhanh chóng . Để tăng thêm chất lượng lớp ximăng , có thể trộn thêm chất
keo ( sản phẩm phụ của cao su nhân tạo ) để tăng thêm tính đàn hồi và
tính bền chắc .
Nói chung tất cả các ballast két nước phải quét ximăng hoặc sơn mỗi năm một lần .
Làm vệ sinh các ballast như sau :
• Bơm hết nước trong ballast ra biển .
•
Mở lỗ chui người ( tuđom ) chuẩn bị đèn pin hoặc đèn điện cầm tay với
nguồn điện 12 V hoặc 24 V , đèn và dây điện phải cách điện tốt .
• Phân công một số thủy thủ mang xô xách nước , chổi , xẻng cán ngắn , chui xuống ballast , tay cầm đèn chiếu sáng .
• Quét sạch ballast , tập trung bùn thành đống rồi hốt ( lấy xẻng xúc ) vào xô , xách ra ngoài ballast .
• Cạo gỉ và lau khô ballast .
• Sơn lại hoặc quét ximăng lại toàn bộ mặt trong của ballast .
•
Khi mặt sơn hoặc ximăng đã khô thì đóng các lỗ chui người như cũ . Chú ý
các đệm cao su kín nước miệng lỗ và phải siết các bulông cho thật chặt
để sau này nước không rò rỉ ra ngoài .
Cách làm vệ sinh các két nước cũng như trên .
Két
nước ăn , sau khi sơn hoặc quét ximăng như trên , thì đổ nước ngọt vào ,
rồi bơm ra ngoài . Sau đó bơm đầy nước ngọt vào để lâu chừng 24 giờ ,
bơm bỏ nước này , rồi đựng thức ăn . Nhưng nếu vẫn còn mùi sơn hoặc
ximăng thì tiếp tục bơm nước vào rồi lại bơm ra để súc rửa vài lần cho
tới khi không còn mùi vị khó chịu . Sau khi sơn hoặc tráng men không nên
để két bỏ không ( không có nước ) quá 30 ngày đêm , vì để quá kỳ hạn
trên , sơn hoặc men dễ bị tróc ra và mất tác dụng chống gỉ .
Két nước rửa , nước lò , sau khi sơn hoặc quét ximăng đã khô , bơm nước ngọt vào để ngâm khoảng 12 giờ .
Những
ballast hoặc két đựng nước biển lâu ngày , có thể có vi sinh vật biển ở
trong đó . Bởi vậy trước khi cho người chui vào phải mở lỗ chui người
và thông gió một thời gian nhất định .
II. CÔNG TÁC GÕ GỈ
Ôxy trong không khí hoặc trong nước tác dụng vào
sắt thép sẽ hình thành trên mặt một lớp gỉ xốp và bám chắc . Nếu lớp gỉ
này không được cạo sạch , ôxy sẽ tiếp tục thẩm thấu vào lớp xi xốp làm
cho sắp thép gỉ càng nhanh hơn . Hiện nay phần lớn vỏ tàu làm bằng sắp
thép , do đó lâu ngày vỏ tàu ( kể cả phần khô lẫn phần chìm trong nước
biển ) sẽ bị gỉ . có khi lớp gỉ dày tới 8 – 10 mm , làm hỏng các tấm tôn
vỏ , thượng tầng kiến trúc , các thiết bị và máy móc khác .
Sắt gỉ
nhanh hay chậm tùy thuộc nhiều nguyên nhân . Nhiệt độ không khí lớn ,
hàm lượng muối trong không khí trên mặt biển nhiều là những nhân tố thúc
đẩy nhanh quá trình gỉ . Ở vùng nhiệt đới gỉ nhanh hơn vùng ôn đới và
hàn đới . Thành phần cấu tạo bản thân sắt thép cũng có ảnh hưởng đến tốc
độ gỉ . Sắt có độ nguyên chất cao , gỉ nhanh hơn sắt có tạp chất của
đồng , niken , crôm , silicat , phôtpho . Một số hàng hóa có thể làm cho
hầm hàng gỉ nhanh , như muối ăn , muối kali . Trên tàu thường có những
chỗ dễ bị gỉ như mạn , các ballast và két nước , lacanh hầm hàng , ống
thoát nước trên boong , bệ máy những mối hàn , các buồng vệ sinh và tắm
giặt …
Muốn cho vỏ tàu không bị gỉ , cần sơn lên mặt sắt thép một vài
lớp sơn . Nhưng trước khi sơn phải gõ sạch hết gỉ , nếu không thì lớp
sơn sẽ bám không chắc . Có thể dùng những dụng cụ thô sơ hoặc cơ giới để
gõ rỉ .
I. Dụng cụ gõ rỉ
a) Dụng cụ thô sơ dùng để gõ rỉ bằng tay
•
Búa gỏ gỉ : Là một loại búa cỡ nhỏ , bằng sắt , hai đầu bùa có hai lưỡi
bằng thép . Lưỡi búa không sắc lắm , nếu sắc quá khi gõ sẽ để lại những
vết lõm trên mặt kim loại .
• Dao cạo gỉ : Có nhiều kiểu dao cạo gỉ
loại dao cán gỗ , có lưỡi hình tam giác 3 cạnh được mài sắc . Nhưng sử
dụng rộng rãi nhất là loại dao không có cán gỗ , làm bằng một thanh thép
dẹt , hai đầu được mài sắc thành 2 lưỡi , trong đó một đầu gấp lên 900 .
Để dễ cầm , người ta quấn một sợi dây gai vào giữa thân dao .
• Bàn chả sắt : Thân bàn chải làm bằng gỗ , sợi bàn chải làm bằng dây thép nhỏ . Dùng bàn chải sắt để chải những lớp gỉ mỏng .
b) Máy gõ rỉ
Phương
pháp gõ rỉ bằng cơ giới được sử dụng ngày càng nhiều trên các tàu biển .
So với cách gõ rỉ bằng tay , phương pháp này có hiệu suất cao , không
những gõ nhanh mà còn gõ sạch . Hiện nay có 2 loại máy gõ rỉ được sử
dụng phổ biến là :
• Máy gõ rỉ bằng động cơ điện : cấu tạo chủ yếu
của máy gồm động cơ điện , trục truyền động và đầu gõ . Động cơ điện làm
quay trục truyền động , trục này mềm làm cho đầu gõ có thể di chuyển
tới được những vị trí cần thiết . Trục truyền động làm cho đầu gõ quay ,
khi có những răng nhỏ dập vào lớp rỉ và đánh bật lớp rỉ ra khỏi mặt kim
loại . Có thể thay đầu gõ bằng bàn chải sắt ( hình tròn ) để chải những
lớp gỉ mỏng .
• Máy gõ rỉ bằng khí nén : cấu tạo chính của máy gồm
có máy nén , ống hơi và búa . Không khí sau khi bị nén , qua ống hơi tới
búa làm cho búa có thể gõ vào lớp rỉ với tần số 6000 lần/phút . Mặt búa
( nơi tiếp xúc với lớp rỉ ) làm nhám và bằng thép tốt . Máy gõ rỉ làm
bằng khí nén có năng suất cao và gõ sạch hơn máy gõ rỉ bằng điện , do đó
người ta thường dùng loại máy này để gõ rỉ dày và những chỗ có nhiều rỉ
. Một máy nén có thể có nhiều ống hơi , dùng cho nhiều búa gõ một lúc
và có thể đưa đầu búa đi gõ những lớp rỉ ở cách rất xa máy nén ( phụ
thuộc vào chiều dài của ống hơi ) .
II. Phương pháp gõ rỉ
Trước
khi gõ rỉ phải chuẩn bị đầy đủ dụng cụ , kiểm tra lại cán búa xem có
chặt không và nhất thiết phải đeo kính bảo vệ , chạy thử và kiểm tra lại
các máy gõ rỉ .
Trước hết dùng búa gõ rỉi những lớp rỉ dày cho bật
ra khỏi mặt kim loại . Gõ nhanh tay và mạnh vừa phải , không nên dùng
lưỡi búa quá sắc và gõ quá mạnh , gây nên những vết lõm làm nhám mặt kim
loại ( nếu mặt kim loại càng ghồ ghề thì bị rỉ càng nhanh ) .
Dùng
dao cạo rỉ cạo những lơp srir mỏng . Đồng thời cạo bỏ cả những lớp sơn
cũ . Nếu những miếng sơn cũ , còn tốt , bám chặt vào mặt kim loại thì
lấy dao cạo rỉ cạo mép miếng sơn , lấy đá bọt mài mép miếng sơn cho bằng
phẳng với mặt kim loại ( để sau này sơn lớp sơn mới sẽ không nhận ra
được mép miếng sơn cũ ) .
Nếu rỉ nhiều trên một diện tích rộng , thì
tốt nhất là dùng máy gõ rỉ chọn những đầu gõ có kích thước phù hợp với
độ dày lớp rỉ . Thông thường một đầu gõ chỉ cần một thủy thủ thao tác là
đủ .
Gõ và cạo xong , lấy bàn chải sắt chải lại toàn bộ mặt kim loại cho sạch những lớp rỉ rất mỏng hoặc rỉ vụn còn sót lại .
Quét
sạch rỉ đã bị bật ra . Cuối cùng lấy giẻ lau sạch bụi bám trên mặt kim
loại . Nếu trên mặt kim loại có vết bẩn dầu mỡ , thì dùng giẻ tẩm dung
môi ( dầu hỏa , dầu thông ) để lau sạch .
Sau khi mặt kim loại đã
sạch , thì tiến hành sơn ngay ( không nên chậm quá 2 – 3 giờ ) . Nếu
chưa có điều kiện sơn ngay thì sơn tạm một lớp dầu pha sơn . Nếu để lâu
không sơn , mặt kim loại sẽ hình thành lớp rỉ mới .
Trong quá trính
gõ rỉ cần chú ý gõ tới đầu sạch tới đó , không để nham nhở . Những chỗ
khó gõ như các mối hàn , đường ống , các góc và chân vách , các đinh tán
, chỗ nối các chi tiết , phải cẩn thận không làm vỡ hoặc nứt . Nếu
nhiều thủy thủ cùng gõ rỉ thì không nên ngồi gần nhau quá .
III. CÔNG TÁC SƠN
Sơn là một công việc được tiến hành thường xuyên và
chiếm tỷ lệ lớn trong khối lượng công tác thủy thủ trên biển . Sơn có
tác dụng giữ cho sắt , thép , khối gỗ khỏi gị rỉ hoặc mục nát , đồng
thời màu sơn còn làm tăng them vẻ đẹp của tàu .
1. Các loại sơn thường dùng trên tàu biển
Sơn dùng trên tàu biển phải đạt những yêu cầu sau :
• Bền , giữ được tính chất trong mọi tình hình thời tiết khác nhau , chịu được tác dụng của nước ngọt cũng như nước mặn .
• Bảo vệ tốt mặt kim loại không bị rỉ , mặt gỗ không bị mục nát .
• Dai , bám chắc , không biến màu .
• Mau khô .
Cấu
tạo chủ yếu của sơn gồm có bột màu , chất tạo màng mỏng , chất dung môi
, chất làm mau khô và các chất bổ sung khác . Một số nguyên liệu thường
dùng trong công tác sơn trên tàu là :
• Bột màu
• Dầu pha sơn
• Vécni
• Chất làm mau khô
• Sơn đã pha ( sơn thành phẩm )
• Sơn chống rỉ
• Sơn đáy tàu
• Sơn mạn đường trọng tải
• Sơn đen chịu nhiệt
• Kim nhũ
2. Dụng cụ sơn
Dụng
cụ sơn hiện nay gồm có các dụng cụ sơn bằng tay như các loại bút sơn và
dụng cụ sơn bằng cơ giới như máy phun sơn . Bút sơn làm bằng lônglownj ,
duôi ngựa , càn bằng gỗ . Loại bút sơn tốt có sợi dài , thẳng , mềm và
đàn hồi . Bút sơn dùng để sơn diện tích nhỏ , những diện tích lớn hơn
thì dùng bút lăn . Hiện nay sơn những diện tích lơn người ta thường dùng
máy phun sơn . Bút sơn có nhiều dạng như : dẹt , bầu dục , tròn , cán
cong , bút lăn …
a) Bút sơn dẹt
b) Bút sơn tròn
c) Bút sơn cong
d) Bút sơn vẽ
e) Bút sơn lăn
f) Máy phun sơn
3. Phương pháp sơn
Trước
khi sơn phải chuẩn bị đầy đủ các loại bút sơn cần thiết , thùng hoặc
khay đựng sơn (chỉ đựng nửa thùng , đựng đầy dễ đổ gây lãng phí ) và một
ít giẻ lau . Mặt kim loại muốn sơn phải gõ sạch rỉ , nếu có vết bẩn dầu
mỡ thì dùng nước xà phòng hoặc các chất dung môi khác rửa sạch rồi lau
khô .
Nhiệt độ và độ ẩm không khí có ảnh hưởng lớn tới chất lượng sơn
, sơn khi nhiệt độ khí trời từ 5 đến 250C là tốt hơn cả . Trường hợp
cần thiếtlawms mới sơn ở nhiệt độ 50C và không nên sơn khi nhiệt độ
xuống dưới -100C . Nên sơn khi trời khô ráo , không nên sơn khi trời mưa
hoặc độ ẩm tương đối của không khí lớn hơn 80 % để tránh những hạt nước
nhỏ bám trên mặt kim loại làm giảm tính bám chắc của sơn . Nếu mặt kim
loại ẩm ướt thì trước khi sơn phải lau khô . Sau khi đã gõ sạch rỉ 6 giờ
( đối với mặt kim loại không lộ thiên , như các vách bên trong của
thượng tần kiến trúc hoặc vách hầm hàng ) phải tiến hành sơn ngay .
Khi
sơn bằng tay , trước hết chọn một bút sơn có kiểu và kích thước phù hợp
với điều kiện làm việc dùng làm bút sơn chính , đồng hời chọn thêm một
hoặc nhiều bút sơn phụ nhỏ hơn để sơn những góc và khe rãnh khó sử dụng
được bút sơnchinhs . Không nên nhúng bút vào thùng quá sâu , chỉ nên
nhúng sao cho sơn bám trên bút vừa phải , không thừa nhiều quá để rớt
sơn . Chấm bút ( đã có sơn ) 3 – 4 điểm trên mặt kim loại rồi từ dưới
lên trên , nhẹ tay hơn , để mặt sơn được đồng đều không còn vết quét của
bút ) . Để bút nghiêng với mặt kim loại một góc 45 – 600 và không nên
ấn bút quá mạnh . Trước hết sơn những chỗ khó trước , những chỗ bên
trong và ở xa , rồi mới sơn những chỗ dễ , gần và ở bên ngoài . Để bảo
vệ tốt mặt sơn kim loại , trước hết sơn lớp sơn chống rỉ sau đó sơn phủ
một hoặc nhiều lớp sơn màu , chờ lớp sơn thứ nhất đã khô hoàn toàn ,
mới tiếp tục sơn lớp sơn thứ hai . Nếu trên mặt kim loại có vết lõm và
khe rãnh , thì lấy đầu bút ngoáy tròn để sơn bám đều , không bỏ sót .
Trong quá trình sơn nếu trên mặt sơn có lông bút rụng ra , thì dùng bút
sơn dẹt để nghiêng với mặt kim loại 300 , xúc mạnh để hất bỏ đi . Khi
sơn vách , lấy bạt cũ lót chân vách để sơn rớt xuống không làm bẩn mặt
boong . Không nên sơn lên gioăng cao su của cửa húplô hoặc cửa ra vào
kín nước , để tránh làm cho cao su mất tính đàn hồi . Nếu để rớt sơn lên
cao su , thì lấy gỉ tẩm dầu thông lau sạch . Khi sơn mạn đến những chữ
hoặc số của thang nước , thì cứ sơn tràn qua . Sau đó lấy giẻ tẩm dầu
thông lau hết sơn trên mặt chữ và số , rồi sơn chữ và số bằng màu sơn
khác . Trong thực tế người ta thường dùng sơn bạc ( kim nhũ ) đẻ sơn ống
hơi nóng , ống nước nóng , ống xả của máy , sơn màu đỏ để sơn ống dầu ,
sơn màu xanh để sơn ống nước . Những buồng ở sau khi sơn xong phải
thông gió để sơn mau khô .
Sơn vécni tiến hành ở nhiệt độ không khí
khoảng 15 – 300C là tốt hơn cả , lạnh quá vécni sẽ lâu khô , nóng quá
sơn sẽ không đều , dùng bút mềm , lông ngắn . Trước khi sơn dùng giẻ tẩm
dầu thông lau qua mặt gỗ ( hoặc kim loại ) . Sau đó sơn nhẹ tay ( nặng
tay sẽ nổi bọt ) nhưng đưa nhanh và không quét đi quét lại nhiều lần
trong một chỗ . Những chỗ giáp ranh giữa 2 màu sơn khác nhau , thì sơn
màu ở bên trên trước , chờ khô mới sơn tiếp màu sơn ở bên dưới ( thấp
hơn ) .
Khi sử dụng máy phun sơn cần chú ý mấy điểm sau :
• Để đầu phun cách mặt kim loại 10 – 15 cm , cầm thẳng cho chùm bụi sơn bay thẳng góc vào mặt kim loại , không cầm nghiêng .
•
Di chuyển đầu phun từ trên xuống dưới cho hết tầm tay , chùm bụi sơn sẽ
sơn thành một giải . Buông cò súng , di chuyển ngang đầu phun một quãng
gần bằng chiều rộng của dải sơn , sao cho mép của giải thứ hai đè lên
mép của giải thứ nhất khoảng 1,0 – 1,5 cm , kéo cò rồi sơn tiếp từ dưới
lên trên .
• Để đỡ hao phí sơn , cần chọn đầu phunnhor và làm việc ở áp lực không khí nén ( gió ) thấp .
• Khi sơn ở chỗ giáp ranh với màu sơn khác , cần phải có tấm chắn ( bằng sắt tay hoặc gỗ dán ) trên đường giáp ranh.
• Khi sơn trong buồng kín , phải đeo mặt nạ phòng độc hoặc bình thở .
Mỗi
khi tàu vào đà cần sơn đáy tàu một lần . Trước hết sơn hai lớp sơn lót
bằng loại sơn chì ô xít sau đó sơn một lớp sơn chống rỉ , một lớp sơn hà
. Thời gian khô toàn bộ của mỗi lớp sơn ( trừ sơn chống hà ) là 24 giờ .
Sau khi sơn chống hà , trong vòng 20 giờ phải hạ thủy , nếu mặt sơn
không bị nứt nẻ .
Sơn mạn đường trọng tải tiến hành 3 tháng 1 lần .
Trước hết cạo sạch hà và rỉ , sau đó sơn hai lớp chống rỉ , rồi hai lớp
sơn màu . Chỉ khi nào lớp sơn khô hoàn toàn mới cho mạn tàu chìm trong
nước .
Thượng tầng kiến trúc sau khi cạo sạch rỉ , sơn hai lớp sơn
chống rỉ , sau đó sơn một lớp sơn trắng loại hai rồi sơn một hoặc hai
lớp sơn trắng loại một . Thông thường 3 tháng sơn lại 1 lần .
Sơn mạn
khô thường tiến hành 3 tháng 1 lần . Sau khi sơn hai lớp sơn chống rỉ ,
sơn 1 hoặc 2 lớp sơn màu ( thường là màu trắng , đen , ghi hoặc da cam )
.
4. Bảo quản sơn và an toàn kỹ thuật khi sơn
Trên tàu có kho
dùng để bảo quản các loại sơn . Kho sơn phải khô ráo , thoáng gió và mát
( tránh xa những nơi có nhiệt độ cao ) để sơn không bị biến chất .
Trước khi sơn phải quấy đều sơn trong thùng sau khi sơn nếu còn thừa thì
đổ dồn vào một thùng . Đậy kín nắp để sơn không bị khô .
Sau khi sơn
xong ngâm bút sơn vào nước sạch , để tránh đầu bút ( lông ) bị khô cứng
không sơn được nữa . Nếu sau khi sơn không dùng bút sơn nữa ( sau một
thời gian dài mới dùng lại ) thì phải gạt sạch hết sơn còn dính trên bút
, rửa bút bằng dầu hỏa , rồi rửa sạch dầu hỏa bằng nước xà phòng . Dùng
nước sạch rửa hết nước xà phòng , đem phơi khô , không nên để dầu hỏa
còn dính lại trên bút sẽ ăn mòn nhựa thông ( ở cổ bút , dùng để gắn chặt
vào cán bút ) có thể gây rụng lông , hỏng bút , sau đó cất bút vào chỗ
khô ráo trong kho .
Trong khi sơn cần thực hiện tốt những quy tắc an toàn sau :
• Cấm lửa trong khu vực đang sơn .
•
Khi dùng ca bản để sơn mạn , cần cột và thường tầng kiến trúc , dây
buộc ca bản phải chắc chắn . Sức kéo đứt của dây phải lớn hơn trọng
lượng của các thủy thủ trên ca bản ít nhất là 8 lần . Không móc thùng
sơn vào ca bản , mà phải buộc bằng dây riêng ( dây buộc ca bản có chu vi
ít nhất là 50 mm ) . Thủy thủ làm việc trên ca bản phải đeo dây bảo
hiểm . Mặt nước dưới ca bản thả nổi sẵn một phao tròn cứu sinh dùng sợi
dây ném , một đầu buộc vào phao này , đầu kia buộc lên boong .
•
Trước khi cho thủy thủ xuống sơn thùng , két ballast kín , khoang kín …
phải tiến hành thông gió . Các thủy thủ phải có đèn chiếu với nguồn điện
12 V và dây tín hiệu , đầu dây kia do thủy thủ cảnh giới bên ngoài cầm .
Thời gian làm việc không lâu quá 45 phút , sau đó ra ngoài thở hít
không khí trong lành 10 – 15 phút .
• Khi sơn trong các buồng , các phòng , phải tiến hành thông gió .
•
Nếu thủy thủ bên trong buồng kín có hiện tượng bị ngộ độc ( nhức đầu ,
nôn mửa , mệt mỏi ) thì phải ngừng làm việc , báo cho thủy thủ cảnh giới
để đưa ra ngoài , chỉ tiến hành công tác trở lại khi trong phòng đã
loại trừ được nguyên nhân gây độc .
• Sơn dây ra tay phải lau ngay . Nếu sơn bắn vào mắt , phải đến phòng y tế .
• Giẻ lau sơn phải vứt đi , vì chúng có thể tự cháy .
• Khi nghỉ giải lao , phải rửa tay rồi mới hút thuốc hoặc uống nước .